NGUYỄN TƯỜNG THỤY
(tiếp theo và hết)
6. Nhưng sức tàn phá ghê gớm nhất và là nguyên nhân chính khiến cho phe XHCH sụp đổ xuất phát từ học thuyết về giá trị thặng dư của Mác.
Theo thuyết này thì khi nhà tư bản bỏ vốn ra mua thiết bị, nguyên vật liệu, thuê nhân công, sau khi bán sản phẩm thì thu được một giá trị lớn hơn. Điều đó là đương nhiên. Vấn đề cần nói là cái giá trị lớn hơn đó, Mác gọi là giá trị thặng dư và cho đó là phần mà nhà tư bản bóc lột công nhân.
Khi thừa nhận máy móc, nguyên vật liệu ... nhà tư bản đã trả đúng giá cả của nó và nhất là thừa nhận đã trả đúng giá cả sức lao động thì sao gọi là bóc lột? Sự mua bán trong quá trình sản xuất diễn ra một cách tự nguyện trên tinh thần thỏa thuận. Trong luận thuyết này, Mác đã không tính đến lao động của nhà tư bản. Phần gọi là giá trị thặng dư, thực chất là lao động (trí óc) của nhà tư bản. Nếu nhà tư bản bỏ tiền ra mà không nhằm thu lại cái gì, chắn chắn người ta bảo họ bị điên. Giá trị tăng thêm trong quá trình sản xuất không phải ở trên trời rơi xuống. Không có họ, làm gì có cái mà Mác gọi là giá trị thặng dư? Chỉ khi nhà tư bản bỏ vốn ra và hành động thì mới sinh ra giá trị tăng thêm đó. Như vậy giá trị tăng lên trong mỗi chu kỳ sản xuất là nhờ nhà tư bản nên phải thuộc nhà tư bản.
Nếu cho phần giá trị tăng lên ấy là nhà tư bản bóc lột lao động làm thuê thì tại sao, người công nhân vẫn cứ muốn bị bóc lột? Tiếc rằng chưa có con số thống kê nào đưa ra có bao nhiêu trăm triệu lao động ở các nước XHCH thất nghiệp, lâm vào cảnh bần hàn, muốn được bóc lột mà không có nhà tư bản nào bóc lột cho.
Học thuyết về giá trị thặng dư được các nhà lý luận cộng sản cho là đó là cống hiến vĩ đại nhất của Mác. Thực ra, Mác đã lập lờ, đánh tráo khái niệm khi đưa ra thuyết giá trị thặng dư.
Cho đấy là một phát hiện thiên tài của Mác, các nhà nước cộng sản chủ trương tiêu diệt kinh tế tư bản, đánh đổ giai cấp địa chủ, giai cấp tư sản. Kinh tế tư nhân chỉ được thoi thóp tồn tại với qui mô nhỏ, bị chèn ép và cũng chỉ được phép trong từng giai đoạn. Cùng với việc xóa bỏ kinh tế tư bản, tư nhân là sự hình thành một nền kinh tế tập trung dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, đưa đất đai vào sở hữu nhà nước.
Ở Việt Nam, có thể kể ra cuộc cải cách ruộng đất 1953 - 1956, cải tạo tư bản tư doanh và hợp tác hóa ở miền Bắc sau 1954, cải tạo tư sản ở miền Nam sau năm 1975. Những việc làm này dẫn tới nền kinh tế kiệt quệ, tới năm 1985-1986 cả nước lâm vào thế đứng bên bờ vực thẳm.
Việc thiết lập nền kinh tế tập trung nhằm mục đích kế hoạch hóa được nền kinh tế, xóa bỏ bóc lột giá trị thặng dư. Và rồi, với kiểu làm ăn chung chạ, cha chung không ai khóc, trình độ quản lý non kém đã khiến cho năng suất lao động ngày càng thấp. Người ta không hiểu rằng, tư hữu là một thuộc tính của con người. Giá trị thặng dư không được sinh ra vì thua lỗ kéo dài và nếu có thì lại chui vào túi nhà tư bản đỏ dưới các dạng tham nhũng.
Động lực sản xuất không còn, giai cấp vô sản quen làm thuê không quen quản lý nên không biết làm gì với đống tài sản tịch thu được sau khi đã chia chác chưa hết, dẫn đến nền kinh tế ngày càng tiêu điều.
Theo thuyết này thì khi nhà tư bản bỏ vốn ra mua thiết bị, nguyên vật liệu, thuê nhân công, sau khi bán sản phẩm thì thu được một giá trị lớn hơn. Điều đó là đương nhiên. Vấn đề cần nói là cái giá trị lớn hơn đó, Mác gọi là giá trị thặng dư và cho đó là phần mà nhà tư bản bóc lột công nhân.
Khi thừa nhận máy móc, nguyên vật liệu ... nhà tư bản đã trả đúng giá cả của nó và nhất là thừa nhận đã trả đúng giá cả sức lao động thì sao gọi là bóc lột? Sự mua bán trong quá trình sản xuất diễn ra một cách tự nguyện trên tinh thần thỏa thuận. Trong luận thuyết này, Mác đã không tính đến lao động của nhà tư bản. Phần gọi là giá trị thặng dư, thực chất là lao động (trí óc) của nhà tư bản. Nếu nhà tư bản bỏ tiền ra mà không nhằm thu lại cái gì, chắn chắn người ta bảo họ bị điên. Giá trị tăng thêm trong quá trình sản xuất không phải ở trên trời rơi xuống. Không có họ, làm gì có cái mà Mác gọi là giá trị thặng dư? Chỉ khi nhà tư bản bỏ vốn ra và hành động thì mới sinh ra giá trị tăng thêm đó. Như vậy giá trị tăng lên trong mỗi chu kỳ sản xuất là nhờ nhà tư bản nên phải thuộc nhà tư bản.
Nếu cho phần giá trị tăng lên ấy là nhà tư bản bóc lột lao động làm thuê thì tại sao, người công nhân vẫn cứ muốn bị bóc lột? Tiếc rằng chưa có con số thống kê nào đưa ra có bao nhiêu trăm triệu lao động ở các nước XHCH thất nghiệp, lâm vào cảnh bần hàn, muốn được bóc lột mà không có nhà tư bản nào bóc lột cho.
Học thuyết về giá trị thặng dư được các nhà lý luận cộng sản cho là đó là cống hiến vĩ đại nhất của Mác. Thực ra, Mác đã lập lờ, đánh tráo khái niệm khi đưa ra thuyết giá trị thặng dư.
Cho đấy là một phát hiện thiên tài của Mác, các nhà nước cộng sản chủ trương tiêu diệt kinh tế tư bản, đánh đổ giai cấp địa chủ, giai cấp tư sản. Kinh tế tư nhân chỉ được thoi thóp tồn tại với qui mô nhỏ, bị chèn ép và cũng chỉ được phép trong từng giai đoạn. Cùng với việc xóa bỏ kinh tế tư bản, tư nhân là sự hình thành một nền kinh tế tập trung dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, đưa đất đai vào sở hữu nhà nước.
Ở Việt Nam, có thể kể ra cuộc cải cách ruộng đất 1953 - 1956, cải tạo tư bản tư doanh và hợp tác hóa ở miền Bắc sau 1954, cải tạo tư sản ở miền Nam sau năm 1975. Những việc làm này dẫn tới nền kinh tế kiệt quệ, tới năm 1985-1986 cả nước lâm vào thế đứng bên bờ vực thẳm.
Việc thiết lập nền kinh tế tập trung nhằm mục đích kế hoạch hóa được nền kinh tế, xóa bỏ bóc lột giá trị thặng dư. Và rồi, với kiểu làm ăn chung chạ, cha chung không ai khóc, trình độ quản lý non kém đã khiến cho năng suất lao động ngày càng thấp. Người ta không hiểu rằng, tư hữu là một thuộc tính của con người. Giá trị thặng dư không được sinh ra vì thua lỗ kéo dài và nếu có thì lại chui vào túi nhà tư bản đỏ dưới các dạng tham nhũng.
Động lực sản xuất không còn, giai cấp vô sản quen làm thuê không quen quản lý nên không biết làm gì với đống tài sản tịch thu được sau khi đã chia chác chưa hết, dẫn đến nền kinh tế ngày càng tiêu điều.
Cùng với những luận điểm khác của chủ nghĩa Mác, thông qua sự áp dụng của những người cộng sản đã kéo lùi tiến trình phát triển của nhân loại nhiều trăm năm, nếu kể cả những hậu quả dai dẳng của nó.
7. Lênin còn phát triển chủ nghĩa Mác khi khẳng định cách mạng vô sản nổ ra không chỉ trong lòng xã hội tư bản phát triển cao mà với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản ở các nước phát triển, cách mạng vô sản có thể nổ ra ở các nước còn kém phát triển. Với luận điểm này, một loạt nước XHCN hình thành ở châu Á, Phi và Mỹ latinh, mà phần lớn, thử nghiệm được một thời gian rồi phải xóa bỏ.
Mác đưa ra được một nguyên lý đúng "quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất". Luận điểm xuất khẩu cách mạng sang các nước còn lạc hậu của Lênin đã trái với nguyên lý này, vì thế, sự thất bại là không tránh khỏi.
8. Đảng cộng sản Việt nam cũng đã từng phát triển, nâng cao chủ nghĩa Mác-Lênin với tư tưởng làm chủ tập thể. Theo họ, khái niệm làm chủ tập thể còn cao hơn khái niệm dân chủ: dân chủ là phạm trù lịch sử còn làm chủ tập thể là phạm trù vĩnh viễn. Khái niệm dân chủ đương nhiên mất đi khi xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản, còn khi đó, làm chủ tập thể sẽ được phát huy trên tất cả mọi mặt của đời sống xã hội. Tư tưởng làm chủ tập thể được ghi vào văn kiện đại hội Đảng lần thứ 4 khiến cho các nhà lý luận, những người viết giáo trình đau đầu, diễn giải loanh quanh, đọc xong mà không hiểu nó là cái gì. Cũng may, một thời gian ngắn sau đó, người ta không nhắc tới nữa.
9. Chủ nghĩa Mác với mục tiêu xây dựng một thế giới đại đồng, trên cơ sở chế độ cộng sản chủ nghĩa là một thứ hoang tưởng. Mong muốn xây dựng một chế độ không có giai cấp, chủ nghĩa Mác muốn xóa đi cái riêng của mỗi con người, biến con người ai cũng như nhau. Điều này là không thể vì như trên đã nói, tư hữu là thuộc tính của con người. Giờ đây, kể cả những người vẫn cổ súy cho chủ nghĩa Mác khó mà nói họ vẫn tin vào nó. Việc hô hào ấy, chẳng qua họ muốn dùng chủ nghĩa Mác như một bình phong để đạt được mục đích cá nhân mà thôi.
Khi chủ nghĩa Mác đã bộc lộ hết những bất cập của nó, kể cả trong lý luận lẫn thực tiễn và trước sự sụp đổ của Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu, nhà nước cộng sản Trung Quốc sau đó là Việt Nam buộc phải có những bước điều chỉnh. Một trong những điều chỉnh mang tính phá vỡ nguyên tắc là thừa nhận nền kinh tế thị trường, thừa nhận kinh tế tư bản, tư nhân. Từ chỗ cấm đảng viên thuê lao động (để bóc lột giá trị thặng dư) đến chỗ cho phép họ kinh doanh. Rõ ràng, những điều này đã phạm những nguyên lý cơ bản nhất của chủ nghĩa Mác. Về thực chất, Việt Nam và Trung Quốc đã và đang xóa bỏ chủ nghĩa Mác. Trên hành tinh này, Triều Tiên là nước duy nhất còn trung thành với chủ nghĩa Mác mà thôi. Chính sự trung thành ấy đã biến Triều Tiên này thành một đất nước quái đản mà ai cũng kinh hãi.
[Nói thêm về công cuộc đổi mới của Việt Nam. Việc đổi mới kinh tế được manh nha từ đầu thập niên 80 của thế ký trước khi khủng hoảng kinh tế - xã hội nổ ra, lạm phát tăng với tốc độ phi mã, tới 900%. Công cuộc đổi mới chính thức được phát động từ Đại hội Đảng CSVN lần thứ 6 (năm 1986), đã đem lại cho nền kinh tế Việt Nam một diện mạo mới. Ông Đỗ Mười, nguyên tổng bí thư Đảng CSVN tự hào nói rằng "không có Đảng thì không có đổi mới". Câu nói này của ông đã bị phê phán, chế giễu. Người ta cho rằng, cái gọi là đổi mới chẳng qua là sửa sai mà thôi, từ chỗ cấm đến chỗ không cấm, từ trói đến nới lỏng. Tuy nhiên, xét cho cùng, ông Đỗ Mười nói vẫn đúng theo lôgic: không có Đảng thì không có cấm, không có cấm thì không có bỏ cấm (đổi mới), tuy đó không phải là ý của ông Mười. Nó chẳng khác gì một tên đầy tớ nhốt ông chủ trong phòng, đến khi không thấy lợi lộc gì thì thả ông ra rồi bắt ông phải cám ơn vì cái sự thả ấy.
Chỉ tiếc rằng, sự đổi mới về kinh tế không được tiến hành song song với đổi mới chính trị nên Việt Nam lại lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội hiện nay]
Thế nhưng không hiểu sao, trong dự thảo sửa đổi hiến pháp 1992, Đảng CSVN vẫn đưa chủ nghĩa Mác vào để làm "nền tảng tư tưởng", vẫn "dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin" trong khi trên thực tế, họ đang vứt bỏ nó. Khó mà tin rằng, Đảng cộng sản Việt Nam vẫn còn tin và trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin.
Chỉ khi nào, bóng ma chủ nghĩa Mác không còn lởn vởn trong đời sống xã hội của nước ta thì mới có thể tính đến chuyện chấn hưng đất nước.
25/3/2013
NTT
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét